Logistics Việt Nam vượt thử thách hướng tới "con đường màu xanh"

18.10.2023

Việt Nam hiện nằm ở vị trí thứ 11 trong danh sách 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu, với tổng giá trị của ngành đạt hơn 40 tỷ USD mỗi năm. Tuy còn phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn nhưng ngành logistics Việt Nam vẫn có những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ.

Trong Hội nghị Logistics 2023 với chủ đề "Logistics Việt Nam - Con đường phía trước", Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cũng đã nhấn mạnh rằng, một vài năm trở lại đây, Chính phủ Việt Nam chú trọng và chỉ đạo tích cực để hoàn thiện cơ chế, chính sách và cơ sở hạ tầng phát triển trong lĩnh vực logistics. Với những nỗ lực này, ngành logistic Việt Nam có những dấu hiệu khởi sắc tốt, nâng cao được năng lực và vị thế cạnh tranh. 

Việt Nam đứng thứ 64 trong danh sách 160 quốc gia về mức độ phát triển logistics theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB). Cũng theo bảng xếp hạng này, Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, chỉ sau Singapore, Malaysia và Thái Lan, thể hiện được vai trò quan trọng của Việt Nam trong phát triển lĩnh vực logistics khu vực Đông Nam Á.

Ngành logistics vẫn đối diện với nhiều khó khăn và thách thức

Ngành logistics ở Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh về cả số lượng và chất lượng doanh nghiệp. Hiện có hơn 3.000 doanh nghiệp vận tải và logistics hoạt động trong nước, cùng với 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới. Các tập đoàn này cung cấp dịch vụ đa dạng, từ thủ tục vận chuyển hàng hóa đến khâu đóng thuế và thanh toán tại Việt Nam. 

Năm 2022, theo đánh giá của Agility, Việt Nam đứng thứ 11 trong danh sách 50 thị trường logistics mới nổi trên toàn thế giới. Ngành logistics Việt Nam đang phát triển với tốc độ hàng năm từ 14% đến 16%, và quy mô của ngành này đạt từ 40 đến 42 tỷ USD mỗi năm. 

Tuy nhiên, ngành logistics được đánh giá vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. 

Thứ nhất, việc đồng bộ hóa thể chế và chính sách về logistics chưa được thực hiện một cách hiệu quả. Mặc dù đã có nhiều tài liệu và hướng dẫn về pháp lý, tuy nhiên, quá trình triển khai các chính sách cụ thể và hướng dẫn thực tế gặp nhiều khó khăn, thậm chí chồng chéo và không rõ ràng. 

Thứ hai, hạ tầng giao thông và logistics chưa đủ để đáp ứng cho sự phát triển. Hiện nay, nhu cầu vận chuyển hàng hoá đa phương thức ngày càng tăng nhưng vẫn chưa có hệ thống hành lang vận tải đa phương thức. Bên cạnh đó, nước ta cũng thiếu khu vực lưu trữ hàng hoá tập trung có vị trí chiến lược tốt. 

Thứ ba, các doanh nghiệp logistics hoạt động còn đơn lẻ, chưa có quy mô, thiếu vốn cũng như nguồn nhân lực mỏng. Đặc biệt là hạn chế về nguồn nhân lực. Chưa có kế hoạch cụ thể để đào tạo đội ngũ chuyên môn lĩnh vực logistics, có khả năng làm việc chuyên nghiệp và triển khai đa dạng các dự án.  

Chia sẻ về các khó khăn này, ông Trần Duy Đông cho biết thêm “93-95% người lao động làm việc trong ngành logistics tại doanh nghiệp nội địa không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ thuộc chuỗi cung ứng nhỏ lẻ như kho bãi, xử lý đơn vận…”

Theo ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công thương, một trong những thách thức lớn hiện nay mà chúng ta phải đối mặt đó là hạn chế về năng lực của doanh nghiệp logistics. Đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì nhiều nguyên nhân khách quen, chủ quan khác nhau nên chưa thể cạnh tranh mạnh mẽ được. Dịch vụ hàng hóa logistics Việt Nam mới chỉ phát triển ở biên giới Việt Nam, chưa đủ tiềm lực để vươn ra quốc tế. 

Tuy nhiên, với một số dấu hiệu khả năng, chúng ta có thể nhìn thấy được “con đường màu xanh”. Và để đạt được điều đó, cần nỗ lực nhiều hơn nữa, thực hiện các chính sách và kế hoạch để thúc đẩy logistics trong thời gian sắp tới. 

Giảm thiểu chi phí vận tải - Thúc đẩy phát triển hạ tầng cơ bản

Bà Phạm Thị Bích Huệ, Sáng lập và Chủ tịch Công ty Western Pacific, đã đề xuất hướng đi mới cho ngành logistics tại Việt Nam theo góc độ doanh nghiệp, đó là giảm tỷ lệ chi phí logistics trên tổng GDP của quốc gia.

Bà Huệ phân tích rằng: Tỷ lệ chi phí vận tải trong tổng chi phí logistics của Việt Nam đang ở mức rất cao, chiếm hơn 60% tổng chi phí logistics. Con số này gần gấp đôi so với các quốc gia khác, trong đó chi phí vận tải chỉ chiếm khoảng 30-40% tổng chi phí logistics”.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần xem xét để “định danh” lại ngành logistics. Hiện tại, logistics được hiểu và ứng dụng quá rộng, các ngành nghề, dịch vụ đa dạng như con người, hạ tầng… Nếu có thể cụ thể hoá được ngành thì việc ban hành pháp lý, chính sách, lên kế hoạch sẽ minh bạch hơn, mức độ thực hiện sẽ khả thi hơn rất nhiều. Và còn có thể thu hút được đầu tư từ các đối tác logistics uy tín trên thế giới. 

Bà Huệ cũng có nhận định rõ ràng trong vấn đề quản lý ngành logistics. Không dễ dàng để câu chuyện quản lý, phát triển ngành thực hiện nhanh chóng được, bởi bản chất của nó thay đổi từng ngày, từng tháng… Và luật hóa cho ngành cũng khó khăn để bắt kịp theo nhịp độ đó. Tuy nhiên, cũng cần có sự đáp ứng tương đối với sự thay đổi của ngành, đảm bảo sự phát triển bền vững. 

Ngành logistics tại Việt Nam đang phát triển, nhưng vẫn còn những vùng kinh tế chưa được chú trọng đầu tư nước ngoài, dẫn đến thiếu hiệu ứng đầu tư tích cực. Để giải quyết vấn đề này, một giải pháp quan trọng là mở rộng hệ thống cơ sở hạ tầng logistics, bao gồm xây dựng thêm các ICD (Intermodal Container Depot) để thu hút đầu tư FDI.

Theo ông Elias Abraham, Giám đốc điều hành Công ty Zim Intergrated Shipping, Việt Nam Việt Nam cần mở rộng thị trường logistics của mình ra các khu vực mới ngoài châu Âu và Mỹ, như Úc, Nam Mỹ và vùng Địa Trung Hải. Đây là những thị trường chưa được tận dụng một cách cụ thể trong khi rất có tiềm năng cho sự phát triển của ngành logistics Việt Nam.

Đồng thời, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ và các ưu đãi trong xuất nhập khẩu với các thị trường mới. Chính phủ cần có nhiều chính sách nhằm khuyến khích và hỗ trợ ngành logistics trong mở rộng thị trường và tạo cơ hội hợp tác quốc tế.

Ngoài những giải pháp quan trọng đã đề cập, cần tập trung vào phát triển các cảng biển loại 2 và loại 3 ở Việt Nam, như ở các tỉnh như Quảng Bình, Long An, Phú Yên, và Quảng Nam. Những địa phương này đang ghi nhận sự tăng trưởng mới và gia tăng nhu cầu vận chuyển hàng hoá. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng của họ hiện chưa đủ tiêu chuẩn, nên các hãng tàu không muốn khai thác.

Hiện tại hàng hóa phải đi qua các cảng biển trung tâm, dẫn đến phải vận chuyển bằng đường bộ với quãng đường dài, chi phí vận chuyển tăng cao. Do đó, phát triển các cảng loại 2 và loại 3 sẽ là lựa chọn hợp lý trong tương lai, giúp tối ưu hóa việc vận chuyển hàng hóa và giảm chi phí vận chuyển.

Source: https://vneconomy.vn/vuot-thach-thuc-dua-nganh-logistics-viet-nam-huong-den-con-duong-mau-xanh.htm

>> Đọc thêm: Bản tin logistics hàng không số 31 (Mới nhất)

Các bài viết khác

Nhận hỗ trợ & tư vấn

Đặt lịch hẹn tư vấn cùng với chuyên gia của ALS