Điều chỉnh quy hoạch tổng thể hệ thống cảng biển Việt Nam

07.06.2024

Quyết định số 442 được Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký vào ngày 23/5, phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, cảng biển TP HCM được định hướng phát triển trở thành cảng biển đặc biệt.

Mục tiêu của quy hoạch hướng đến là xây dựng một hệ thống cảng biển Việt Nam hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương giữa các vùng trong nước và quốc tế cũng như phục vụ cho việc trung chuyển và quá cảnh hàng hóa của các nước trong khu vực. Đồng thời, quy hoạch cũng hướng đến việc đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách nội địa và quốc tế.

Ưu tiên phát triển cảng Cần Giờ với tiềm năng trở thành cảng biển đặc biệt

Theo quy hoạch, hệ thống cảng biển sẽ đảm bảo khả năng thông qua từ 1.249 đến 1.494 triệu tấn hàng hóa. Trong đó có từ 46,3 đến 54,3 triệu TEU hàng container (không bao gồm hàng trung chuyển quốc tế) và phục vụ từ 17,4 đến 18,8 triệu lượt hành khách.

Về mặt hạ tầng, kế hoạch quy hoạch sẽ tập trung để phát triển các khu bến cảng cửa ngõ quốc tế như Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) và xây dựng khu bến cảng trung chuyển quốc tế tại Cần Giờ (TP HCM).

Trong nhóm 15 cảng biển loại 1, các cảng tại Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa và TP HCM được xác định là có tiềm năng phát triển vượt trội để trở thành các cảng biển đặc biệt.

Chính phủ cũng đã chỉ đạo các đơn vị liên quan nghiên cứu và phát triển cơ chế chính sách phù hợp để từng bước xây dựng cảng trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa) nhằm khai thác tiềm năng về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi. Quy hoạch cũng hướng đến việc phát triển bến cảng Trần Đề (Sóc Trăng) phục vụ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với mục tiêu triển khai đầu tư khi điều kiện cho phép.

Ngoài ra, quy hoạch đặt mục tiêu rõ là tạo điều kiện thuận lợi cho các cảng biển quy mô lớn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và các vùng liên quan. Các bến cảng khách quốc tế sẽ được liên kết với các khu vực phát triển du lịch. Trong khi các bến cảng quy mô lớn sẽ phục vụ cho các khu kinh tế và khu công nghiệp. Đồng thời, các bến cảng tại các huyện đảo sẽ được phát triển để hỗ trợ kinh tế - xã hội, gắn liền với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Chính phủ đã yêu cầu hệ thống cảng biển phải đạt được mức tăng trưởng hàng hóa thông qua từ 4,2 đến 4,8% mỗi năm, trong khi lượng hành khách phải tăng trưởng từ 1,2 đến 1,3% mỗi năm.

Ngoài ra, trong quyết định này, Chính phủ cũng phê duyệt việc điều chỉnh tổng vốn đầu tư cho các bến cảng phục vụ dịch vụ xếp dỡ hàng hóa đến năm 2030, với số tiền khoảng 313.000 tỷ đồng. Con số này không bao gồm vốn đầu tư cho khu bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ.

Phần lớn nguồn vốn sẽ được huy động từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước, bao gồm vốn doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Ngân sách nhà nước sẽ tập trung đầu tư vào hạ tầng hàng hải công cộng và các khu vực trọng điểm để tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.

Tổng diện tích đất dự kiến sử dụng cho quy hoạch cảng biển đến năm 2030 là khoảng 33.600 ha. Trong khi tổng diện tích mặt nước cần thiết cho phát triển hệ thống cảng biển là khoảng 606.000 ha. Các con số này chưa bao gồm diện tích đất và nước của khu bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ.

Sửa đổi quy hoạch các nhóm cảng biển, cảng biển và khu bến cảng

Quyết định số 442 cũng bao gồm những thay đổi và bổ sung đối với quy hoạch các nhóm cảng biển và khu vực bến cảng.

Theo quyết định này, nhóm cảng biển số 1 sẽ bao gồm 5 cảng: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Đến năm 2030, nhóm cảng biển này dự kiến sẽ xử lý từ 322 đến 384 triệu tấn hàng hóa. Trong đó có từ 13 đến 16 triệu TEU hàng container và đón từ 281.000 đến 302.000 lượt hành khách.

Tầm nhìn đến năm 2050, nhóm cảng biển số 1 cần đạt được tốc độ tăng trưởng hàng hóa trung bình hàng năm từ 5,0 đến 5,3% với lượng hành khách tăng trưởng trung bình từ 1,5 đến 1,6% mỗi năm.

Kế hoạch phát triển bao gồm hoàn thành đầu tư khu bến cảng Lạch Huyện và Cái Lân. Đồng thời di dời các bến cảng trên sông Cấm để phù hợp với quy hoạch phát triển của thành phố Hải Phòng. Bên cạnh đó, sẽ tập trung đầu tư phát triển các bến cảng tại khu vực Nam Đồ Sơn - Văn Úc, Cẩm Phả và Hải Hà.

Nhóm cảng biển số 2 sẽ bao gồm 6 cảng: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên Huế. Theo kế hoạch, đến năm 2030, nhóm cảng này dự kiến sẽ xử lý từ 182 đến 251 triệu tấn hàng hóa. Trong đó có từ 0,4 đến 0,6 triệu TEU hàng container, và đón từ 374.000 đến 401.000 lượt hành khách. 

Với tầm nhìn đến năm 2050, nhóm cảng biển số 2 cần đạt tốc độ tăng trưởng hàng hóa trung bình hàng năm từ 3,6 đến 4,5%. Và lượng hành khách tăng trưởng trung bình từ 0,4 đến 0,5% mỗi năm. Kế hoạch phát triển sẽ tập trung vào việc hoàn thiện đầu tư và phát triển cụm cảng Nghi Sơn - Đông Hồi, Vũng Áng và Sơn Dương - Hòn La.

Nhóm cảng biển số 3 bao gồm 8 cảng: Đà Nẵng (bao gồm khu vực huyện đảo Hoàng Sa), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa (bao gồm khu vực huyện đảo Trường Sa), Ninh Thuận và Bình Thuận. Theo kế hoạch, đến năm 2030, nhóm này sẽ xử lý từ 160 đến 187 triệu tấn hàng hóa. Trong đó có từ 2,5 đến 3,1 triệu TEU hàng container (không bao gồm hàng trung chuyển quốc tế), phục vụ từ 3,4 đến 3,9 triệu lượt hành khách.

Đến năm 2050, nhóm cảng này cần đáp ứng nhu cầu tăng trưởng hàng hóa với tốc độ trung bình từ 4,5 đến 5,5% mỗi năm. Số lượng hành khách tăng trung bình từ 1,7 đến 1,8% mỗi năm. Các dự án phát triển chính bao gồm hoàn thiện đầu tư toàn bộ khu bến cảng Liên Chiểu ở Đà Nẵng và xây dựng cảng trung chuyển hàng hóa quốc tế tại Vân Phong, Khánh Hòa.

Nhóm cảng biển số 4 bao gồm 5 cảng lớn: TP HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương và Long An. Đến năm 2030, nhóm cảng 5 dự kiến sẽ xử lý từ 500 đến 564 triệu tấn hàng hóa. Trong đó có từ 29 đến 33 triệu TEU hàng container (không bao gồm hàng trung chuyển quốc tế), phục vụ từ 2,8 đến 3,1 triệu lượt hành khách.

Tầm nhìn đến năm 2050, nhóm cảng biển số 4 cần đạt tốc độ tăng trưởng hàng hóa trung bình hàng năm từ 3,5 đến 3,8%, với số lượng hành khách tăng trưởng trung bình từ 0,9 đến 1,0% mỗi năm.

Các dự án phát triển chính bao gồm: hoàn thiện đầu tư các bến cảng Cái Mép Hạ; tiếp tục đầu tư vào khu bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ TP HCM, nhằm xây dựng cụm cảng trung chuyển quốc tế quy mô lớn có tầm cỡ khu vực Châu Á và quốc tế tại cửa sông Cái Mép (bao gồm khu bến Cái Mép và Cần Giờ); hoàn thành công tác di dời các bến cảng trên sông Sài Gòn và tiếp tục nghiên cứu di dời các khu bến khác phù hợp với việc phát triển không gian đô thị của TP HCM.

Nhóm cảng biển số 5 bao gồm 12 cảng: Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang. Theo quy hoạch, đến năm 2030, nhóm cảng này dự kiến sẽ xử lý từ 86 đến 108 triệu tấn hàng hóa, trong đó có từ 1,3 đến 1,8 triệu TEU hàng container, phục vụ từ 10,5 đến 11,2 triệu lượt hành khách.

Với tầm nhìn đến năm 2050, nhóm cảng này sẽ cần đạt tốc độ tăng trưởng hàng hóa trung bình hàng năm từ 5,5 đến 6,1% với số lượng hành khách tăng trưởng trung bình từ 1,1 đến 1,25% mỗi năm.

Một mục tiêu chính là xây dựng cảng cửa ngõ tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long để tăng cường hiệu suất vận tải hàng hóa và phục vụ nhu cầu đi lại của cư dân địa phương.

Nguồn: https://mekongasean.vn/dieu-chinh-quy-hoach-tong-the-he-thong-cang-bien-viet-nam-post34918.html 

Các bài viết khác

Nhận hỗ trợ & tư vấn

Đặt lịch hẹn tư vấn cùng với chuyên gia của ALS